Tâm Lý Người Việt Nam Nhìn Từ Nhiều Góc Độ book. Read reviews from world's largest community for readers.
Kinh tế Việt Nam từ góc nhìn quốc tế đến phân tích của chuyên gia trong nước Ngân hàng Phát triển châu Á điều chỉnh giảm mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế của một số nền kinh tế lớn so với sự báo hồi tháng 4, ví dụ điều chỉnh dự báo GDP Hoa Kỳ giảm từ 3,9%
2bạo lực giới trong gia đình việt nam và một số giải pháp phòng chống. vai trò của phụ nữ trong gia đình việt nam hiện nay. trò của người phụ nữ trong gia đình việt nam hiện nay trong công nghiệp hóa hiện đại hóa. thực trạng và giải pháp phát huy vai trò người phụ nữ
Phân cấp quản lý kinh tế ở Việt Nam: Nhìn từ góc độ thể chế. Danh mục: Báo cáo khoa học. 20102011Phân c p qu n lý kinh t Vi t Nam: Nhìn t th ch Trang 8 / 23 M c dù có ch n v phân c c bi t là lý lu n v vai trò c c trong
Thực chất của Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực là đi tìm sự ẩn giấu đằng sau cái vỏ ngôn từ thi ca độc đáo chính là tín ngưỡng phồn thực của người Việt và cũng là "mẫu số chung" của văn hóa nhân loại. Đó là ước muốn về sự phồn thực, phồn sinh, sinh sôi nảy của nở vạn vật, không ngoài mục đích duy trì nòi giống và đảm bảo đời sống no đủ.
Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd. • Đã gọi là phong cách, ít ra phong cách ấy cũng xuất phát từ hơn nửa thế kỷ, hoặc hơn nữa, không thể nhìn vào hiện tượng vài mươi năm rồi mất hẳn. Và trong tương lai, phong cách xưa vẫn còn tồn tại, phát triển, khó thay đổi về cốt lõi. • Phong cách của người Sài Gòn so với cả nước không có gì khác lạ. Ở đâu trên nước Việt Nam mà người dân không hiếu khách, trọng nghĩa khinh tài, lanh lẹ, cần cù, nhưng ở Sài Gòn, phong cách ấy thể hiển đậm nét, ở vài khía cạnh nào đó. Phong cách nào phải do trời đất ban cho, nhưng thành hình do hoàn cảnh bắt buộc con người phải thích ứng, hội nhập, bằng không thì dễ bị đào thải. Thích ứng để tồn tại, vươn lên. Hoàn cảnh do sinh hoạt kinh tế, với quy luật riêng. Ai cũng biết, đó là văn minh biển Sài Gòn là hải cảng, ngay từ khi mở nước 300 năm trước, để giao lưu với các nước Đông Nam Á, sau đó là các nước phương Tây. Sài Gòn cũng là nơi nhộn nhịp với văn minh sông nước về phía đồng bằng sông Cửu Long. Đồng thời, Sài Gòn còn là không cảng quốc tế quan trọng. Mà khi đã là vùng cảng, thì luôn luôn có nhiều dịch vụ cần thiết, để thu mua hàng hóa, phân phối hàng hóa… đời sống tương đối ddễ dàng hơn so với nông dân vùng xa, vùng sâu. Thành phố cảng phải có hạ tầng cơ sở cần thiết như nhà ở, đường xá, cống rãnh, bệnh viện, trường học, ăn uống, giải trí … Một yếu tố quan trọng phải được nhắc đến, đó là trên đường mở nước, từ những làng mạc khép kín với lũy tre, làng xóm lần hồi mở rộng ra, chỉ còn ranh giới mơ hồ về quản lý hành chính. Người đã bỏ làng quê không bị ràng buộc chặt chẽ về luân lý phong kiến, thể diện gia tộc. Với phố cổ Hội An thời Chúa Nguyễn, mặc nhiên vua chúa phải ban hành cho phía Nam một qui chế dễ dãi. Quá khứ người tù đày, thường phạm bắt buộc phải đi khẩn hoang vẫn còn trong tiềm thức. Đi xa quê hương, nhưng vẫn gắn bó với sông Mã, sông Hồng, non sông liền một dải, chung một lịch sử, một văn hóa, cụ thể là về phong tục vẫn giữ cốt lõi, qua những lễ hội, văn hóa, văn học … Người Sài Gòn cũng ưa nghe tin tức, hay còn gọi là tìm lượng thông tin, bởi vậy báo chí là là món ăn cần thiết. Họ đọc báo để tìm hiểu tình hình chung, đặc biệt là tin tức liên quan đến công việc làm ăn hàng ngày của mình. Thiếu lượng thông tin, hóa ra lạc hậu, thất bại trong việc làm ăn, vì tình hình luôn biến động từng giờ, từng phút. Và cũng vì ngành này liên quan đến ngành khác, người ta phải đọc báo để kiểm tra cho đầy đủ. Ngồi quán cà phê đọc báo, chờ bạn bè, ai không đọc báo thì lắng nghe người đã đọc tóm lược giùm. Ta không lấy làm lạ khi thấy báo bán chạy, nhất là báo Sài Gòn giải phóng, cần thiết để hiểu đường lối cho mọi công dân. Báo Công An thành phố Hồ Chí Minh bán chạy lạ thường, hợp với khẩu vị của nhiều giới tin xác thực, đọc lên thấy vui. Lại còn biết được thủ đoạn gian manh để đề phòng. Đọc báo để giải trí, xem quảng cáo xe cộ, nhà đất… ngồi không cũng vô ích. Giao thiệp với bạn bè, tìm bạn mới, trao đổi nhau số điện thoại, danh thiếp. Ăn uống lặt vặt, ai trả tiền cũng được, người tuy khác ngành nghề nhưng biết đâu sẽ giúp đỡ mình chuyện gì đó. Làm quen với anh phu xích lô, cũng là một dịp huống gì với một thương gia. Người đang thất nghiệp cũng có thể giúp đỡ ta khi có dịp. Làm dịch vụ mua bán lớn nhỏ cần sự sòng phẳng. Làm ăn vui vẻ, bất chấp đối tác của mình có quá khứ như thế nào, miễn là giữ chữ tín. Ai gặp khó khăn, có thể thất tín, nhưng phải khiêm tốn xin lỗi. Giận hờn để làm lành, với một tiệc nhỏ rồi bỏ qua, nhưng theo luật giang hồ là “bất quá tam”, nghĩa là đến lần thứ ba thì không khoan dung được. Hào hiệp, nghĩ rằng người đến Sài Gòn đa số là kẻ sa cơ thất thế, vì vậy mà giúp đỡ tận tình, nhưng đừng hiểu lầm đó là ngây thơ, khờ khạo. Là vùng ít thiên tai, bão lụt nên dễ sống. Có nhiều dịch vụ linh tinh, nhờ thế người nghèo có thể sống được, thậm chí, nếu chịu khó thì cũng có thể khá lên được sau vài tháng. “Tiến thì về nội, thôi thì về ngoại”, còn hậu phương thì khá vững, đó là bà con, họ hàng bên vợ, là bạn bè chí cốt ở đồng bằng hoặc miền Đông. Các Chị ở Sài Gòn nói riêng và Nam Bộ nói chung khá linh hoạt, giỏi làm kinh tế, nhất là trong nghề tiểu thương, tảo tần nuôi chồng con, hiếu đễ với cha mẹ. Ngoài ra còn có thói quen cho vay tiền bạc góp, làm ăn nhờ tiền vay này, “làm bữa nào xào bữa ấy”. Ta thấy suốt ngày, thậm chí đến 8 giờ khuya vẫn còn có người đi chợ mua rau cải, gạo cá. Ham thích du lịch, nhất là đi chùa chiền, miếu mạo theo sự đồn đại của bạn bè. Tư tưởng đa thần, cái gì cũng theo, cũng tin, để cầu mong phước đức kinh tế thị trường quả là sự rủi may, cho nên giàu thì không dám khinh lờn thần thánh, nghèo thì khấn vái để được gặp may mắn. Nét tích cực nhất của người Sài Gòn là làm điều từ thiện, theo cảm tính, dễ thương người. Luôn giúp người khuyết tật, nạn nhân bão lụt, thiên tai, theo quan niệm “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Hiện nay, những phong cách trên của người Sài Gòn vẫn còn thể hiện khá rõ. Mặc dầu lúc giao thời với kinh tế thị trường, một số người trẻ tuổi có những biểu hiện nông nổi, nhưng quá 50 tuổi, ai cũng trở về nguồn với kỷ niệm, với tâm linh. Sơn Nam Trích trong “Tâm lý người Việt Nam nhìn từ nhiều góc độ”
TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI VỚI NGƯỜI TRẺ VÀ GIA ĐÌNH TRẺ NHỮNG HỆ LỤY NHÌN TỪ GÓC ĐỘ TÂM LÝ HỌCLm. Giuse Têrêsa Trần Anh ThụWHĐ – Không thể phủ nhận, kể từ khi những phương tiện truyền thông phát triển cùng với cuộc cách mạng Internet, đời sống xã hội đã có những thay đổi thật rõ nét theo chiều hướng tích cực và phát triển. Những khái niệm mới về truyền thông cũng bắt đầu xuất hiện cùng với sự phát triển này. Nói khác hơn, truyền thông đã bắt đầu một cuộc chuyển tiếp từ truyền thống sang những cách thức hiện đại. Sự chuyển tiếp này là sự phát triển. Tuy thế, nó cũng để lại không ít những hệ lụy. Từ góc nhìn của tâm lý học, bài viết này xin được góp một góc nhìn về một số hệ lụy của nó trên những người trẻ và các gia đình trẻ thời đại Một số khái Truyền thôngTừ ngữ “truyền thông” communication bắt nguồn từ gốc tiếng Latinh “communicare” với ý nghĩa là chia sẻ, truyền tải, truyền đạt. Truyền thông, vì thế, được định nghĩa như quá trình chia sẻ, truyền tải dữ liệu, thông tin, ý tưởng, ý nghĩ, ý kiến hoặc tri thức... từ một người hoặc nhóm người đến một người hoặc nhóm người khác. Qua quá trình tương tác qua lại này, hai bên sẽ hiểu biết nhau hơn, hoặc thay đổi nhận thức, thái độ và hành trình truyền thông bao gồm các yếu tố cơ bản sau- Nguồn là yếu tố mang thông tin và khởi xướng quá trình truyền thông. Nói cách khác, đây là người phát thông Thông điệp là nội dung thông tin được trao đổi từ nguồn phát đến đối tượng tiếp nhận thông Kênh truyền thông là các phương tiện, con đường, cách thức chuyển tải thông điệp từ nguồn phát đến đối tượng tiếp Người nhận là cá nhân hay nhóm người tiếp nhận thông điệp trong quá trình truyền Phản hồi là thông tin ngược, là dòng chảy của thông điệp từ người nhận trở về nguồn Nhiễu là yếu tố gây ra sự sai lệch thông tin trong quá trình truyền Truyền thông xã hộiTheo Andreas Kaplan và Michael Haenlein, truyền thông xã hội là “những ứng dụng Internet xây dựng trên nền tảng công nghệ và lý tưởng của web tạo điều kiện cho việc kiến tạo và trao đổi thông tin của người dùng”[1].Murphy[2] cho rằng truyền thông xã hội đơn giản là công cụ truyền thông mà công chúng có thể tạo ra và trao đổi thông tin trên mạng tác giả Nguyễn Khắc Giang, cần lưu ý sự khác biệt giữa truyền thông xã hội social media và mạng xã hội social network. Theo tác giả, “Về mặt bản chất công nghệ, hai khái niệm này đều cùng chỉ một bản thể đó là những website dựa trên nền tảng web để giúp người sử dụng có thể tạo lập và truyền tải thông tin. Tuy vậy, thuật ngữ truyền thông xã hội mang nghĩa rộng hơn, bao hàm cả phương tiện lẫn nội dung, trong khi mạng xã hội nhấn mạnh nhiều hơn đến nền tảng công nghệ tạo ra nó”[3].Truyền thông xã hội là phương thức dựa vào sức mạnh lan tỏa và tương tác mạnh của các mạng xã hội phổ biến như Facebook, Youtube, Linkedln, Blog, Forum... để truyền đi những thông điệp. Với đặc tính đa chiều, không gian tương tác rộng, kênh truyền thông xã hội truyền tải thông điệp nhanh hơn, lan truyền rộng rãi hơn và mạnh mẽ hơn. Đồng thời, kênh truyền thông này còn tạo được sự tương tác mạnh mẽ đối với công lại, truyền thông xã hội cũng bao gồm những yếu tố của truyền thông. Hệ thống mạng xã hội chính là kênh truyền thông đặc biệt của quá trình truyền thông xã hội. Vì thế, có thể nói những ảnh hưởng của kênh truyền thông này cũng bao hàm trong những hệ lụy của truyền thông xã hội được đề cập tới trong bài Người trẻ trong bối cảnh của truyền thông xã hộiTrong bối cảnh của truyền thông xã hội, giới trẻ/người trẻ được hiểu rộng hơn so với quy chuẩn theo sự phát triển của tâm lý và thể lý. Ở nhiều nước trên thế giới và tại Việt Nam theo Nghị định 27/2018/NĐ-CP, người sử dụng Internet dưới 14 tuổi và chưa có chứng minh nhân dân/thẻ căn cước công dân/hộ chiếu, người giám hộ hợp pháp như cha, mẹ sẽ quyết định việc đăng ký thông tin cá nhân của mình để thể hiện sự cho phép và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc đăng ký vậy, trẻ em dưới 14 tuổi dùng mạng xã hội phải được cha, mẹ đồng ý và nếu đồng ý, chính cha, mẹ sẽ dùng thông tin cá nhân của mình để đăng ký tài khoản cho con trên mạng xã hội. Nói cách khác, từ 14 tuổi trở lên, trẻ có thể tham gia vào mạng xã hội, họ có thể tiếp cận thông tin của truyền thông xã trạng này đã được quan tâm từ nhiều quốc gia. Tại một số nước thuộc liên minh Châu Âu, việc nâng độ tuổi người tham gia hợp pháp từ 13 lên 16 tuổi cũng đã từng được đặt ra. Trong thực tế, hiện nay ở Việt Nam, số trẻ em dưới 14 tuổi tham gia các mạng xã hội không phải là ít. Việc tham gia của các em hầu như không được sự kiểm soát của phụ tóm lại, khái niệm người trẻ trong bài viết sẽ nói tới những người từ dưới tuổi trưởng thành đã và đang tham gia vào mạng xã Gia đình trẻTheo luật hiện hành của Việt Nam, các bạn nữ 18 tuổi và nam 20 tuổi đủ điều kiện để kết hôn. Như thế, các gia đình kết hôn khi đủ tuổi theo luật trong những năm đầu đời hôn nhân được gọi là những gia đình trẻ. Bởi họ là những người vẫn đang trong độ tuổi của những người nhiên, tính từ “trẻ” cũng có thể hiểu là “mới vào nghề”. Vì thế, chúng tôi cũng hạn định trong bài viết về cả những gia đình dù không còn nằm trong độ tuổi “người trẻ” nhưng mới chỉ sống đời sống hôn nhân và gia đình trong thời gian Những hệ Những hệ lụy trên người trẻMùa hè năm 2014, liên đoàn Thanh Sinh Công Sài gòn đã tổ chức Đại hội với chủ đề “Thời mạng xã hội - Sinh viên tìm kiếm giá trị thật”. Sau những ngày làm việc cùng nhau qua việc quan sát, thảo luận, tìm hiểu thực trạng sử dụng Mạng xã hội hiện nay, cũng như những ảnh hưởng của nó đối với giới trẻ các bạn đã ra tuyên bố chung“Chúng tôi nhận thức được rằng, mạng xã hội góp phần quan trọng trong cuộc sống của con ích của mạng xã hội là truyền tải và thu nhận thông tin, kết nối các mối quan hệ, học tập nghiên cứu, chia sẻ cảm xúc suy nghĩ một cách tự do, phục vụ cho công việc và cuộc sống của từng nhiên, bên cạnh đó, sử dụng mạng xã hội không đúng cách, dẫn đến nhiều mối đe dọa và ảnh hưởng lớn đến đời sống của giới trẻ như Nghiện mạng xã hội, mất thời gian cho những việc khác, lơ là những mối tương giao trực tiếp với mọi người xung quanh, sống ảo tưởng, ảnh hưởng đến sức khỏe, giảm trí nhớ, thông tin cá nhân bị sử dụng theo cách mình không thể kiểm soát. Điều nguy hiểm nhất là không phân định được giá trị ảo - thật trong cuộc sống”. Bài viết này xin được góp thêm cách rõ hơn dưới góc độ tâm lý về các hệ lụy Sự phát triển nhân cách lệch lạca. Nhân cách ái kỷTrong tác phẩm “Hành trình tự do”, tác giả nhận định “Các nhà tâm lý trị liệu cũng như thần học đều rất quan tâm đến sự ái kỷ đáng sợ đang gia tăng trong thời đại hiện nay, đó là một thứ não trạng quy ngã chỉ quan tâm đến cuộc sống và cảm xúc của mình. Kẻ ái kỷ thì sa sút ý thức tội lỗi một cách nghiêm trọng, bởi vì tha nhân và quyền lợi của tha nhân chẳng có nghĩa lý gì đối với họ. Chỉ mình họ mới đáng kể. Mọi người khác chỉ là công cụ để họ sử dụng và đáp ứng nhu cầu của mình. Họ chỉ quan tâm đến cảm xúc, kế hoạch và khát vọng của mình, chứ không hề quan tâm đến ai khác. Vì thế, khi họ theo đuổi mục tiêu của mình, nếu có ai bị giẫm đạp hay bị tổn thương, thì điều đó chẳng hề làm họ đau đớn. Thậm chí, họ cũng không nhận ra sự khốn khổ của những người bị tổn thương. Cảm thấy điều gì có lợi cho mình là họ làm, bất chấp người khác có bị thiệt hại và tổn thương hay không. Nếu có điều gì khó khăn, thì cần gì phải nỗ lực, bất chấp sự phiền hà mà người khác phải chịu. Thậm chí kẻ ái kỷ cũng không cần phải biện minh cho mình. Họ đâu cần phải nói “Cảm xúc của người khác chẳng có gì quan trọng!” bởi vì họ ít khi nhận ra cảm xúc bị tổn thương của người khác. Họ quan tâm về mình đến mức, họ khó nhận biết nỗi đau và niềm vui của tha nhân. Thế giới của kẻ ái kỷ khởi đi từ chính mình và cũng kết thúc nơi mình”[4].Tuy thế, chúng ta cũng cần phân biệt với “ái kỷ sơ khai” primary narcissism theo Sigmund Freud viết trong bài “Ông hoàng sơ sinh” 1914 về giai đoạn đầu tiên của một đứa trẻ sơ sinh. Theo M. Barnett[5], “Trẻ sơ sinh cần phải tự yêu mình và ích kỷ khi mới sinh ra, đây là một cơ chế tiến hóa, giúp cho những nhu cầu cơ bản của chúng được đáp ứng, giúp chúng tồn tại”.Như vậy, xu hướng ái kỷ là điều mà mọi chúng ta đều đã trải qua khi còn là trẻ nhỏ, nhằm giúp chúng ta sinh tồn và phát triển. Jeffrey Kluger nêu ra ba đặc điểm, mà ông gọi là “hạt giống của chứng ái kỷ” có thể phát triển thành chứng rối loạn nhân cách ở người trưởng thành. Đó là thiếu đồng cảm, thiếu khả năng kiểm soát ham muốn và thiếu sự ăn năn hối lỗi. Nhưng điều lo ngại là nếu trong quá trình trưởng thành, cơ chế này không được định hình và uốn nắn thì nó có thể dẫn tới chứng rối loạn nhân cách ở người trưởng nhà tâm lý học mới đây đã cảnh báo việc selfie có thể gây ảnh hưởng không tốt, thậm chí có thể gây nghiện và làm tăng sự ái kỷ của cá nhân đó. Nguyên do chứng ái kỷ gắn liền với lối sống xa hoa, chú trọng hình ảnh, danh tiếng. Trường hợp của Danny Bowman, 19 tuổi, sống ở Anh, bị nghiện chụp ảnh selfie là một ví dụ. Do những phản hồi chê bai về những tấm hình selfie, cậu đã đi đến mức tự tử. Tiến sĩ David Veal, một nhà tâm thần học phụ trách chữa trị cho Danny, cho biết trường hợp của Danny khiến ta không thể phủ nhận tính nghiêm trọng của vấn đề. “Đây không đơn thuần là sự phù phiếm nữa. Nó là một căn bệnh tâm lý dẫn tới tỉ lệ tự tử rất cao”.Trào lưu gắn liền đời sống với mạng xã hội của người trẻ Việt Nam có thể cũng đang là sự góp phần cho việc hình thành nên những nhân cách của một thế hệ trẻ tự yêu mình, ít hòa nhập với xã Nhân cách dửng dưngNhà tâm lý học cá nhân Alfred Adler 1870-1937 cho rằng, thiếu “sự quan tâm xã hội” chính là tình trạng không lành mạnh của sức khỏe tâm thần. Nó có nguy cơ dẫn đến tình trạng thất bại, thần kinh, điên loạn, nghiện ngập, tự tử.... Mục tiêu của những người này là vinh quang cho riêng họ. Theo ông, những “quan tâm xã hội” là kết quả của cả hai quá trình bản năng và học tập. Dù nó đã được lập trình sẵn, nhưng nếu không được nuôi dưỡng và phát huy, nó sẽ biến mất ông, thiếu hay đầy đủ “sự quan tâm và hứng khởi xã hội” sẽ dẫn tới 4 type nhân cách 1 người thích điều khiển người khác hay gây gổ, gạt bỏ người khác để đạt được mục đích của mình; gây sức ép với người khác nhiều khi bằng con đường nghiện ngập, rượu chè và tự sát. 2 Người dựa dẫm ít nhiệt huyết, mệt mỏi, suy nghĩ tiêu cực, dễ mắc chứng phobie, ám ảnh, loạn thần kinh, mất trí nhớ. 3 Người né tránh chạy trốn mọi người, co cụm, cô lập. 4 Người có lợi cho xã hội suy nghĩ lành những người trẻ tham gia vào mạng truyền thông xã hội, họ “bơi” trong một thế giới tràn ngập những hình ảnh và thông tin mà họ cũng chẳng có đủ thời gian để đọc, để xem xét một cách đầy đủ. Nhìn từ bên ngoài, xem ra những người đang tham gia vào hệ thống truyền thông này biết nhiều vấn đề, sự kiện. đang diễn ra trên thế giới; nhưng có nguy cơ chai lỳ cảm xúc trước những điều đang tràn ngập bên cạnh mình và trở thành những người sống dửng dưng trước mọi vấn đề, mọi con người mà họ gặp nút “like” được nhấn vội vàng chỉ để nhằm cho những người khác thấy mình nhạy tin, biết chuyện. Bên cạnh những nút “like”, những nút “share” cũng được bấm một cách vô tội vạ, ngay cả khi họ cũng chưa biết đủ thông tin đó là gì cách sâu xa. Những nút “like” và “share” này, tự nó, không phải là nguyên nhân; chính những người đang sử dụng nó là nguyên nhân chính. Bởi lẽ, họ đang muốn chứng tỏ mình là người nhạy tin, hiểu biết... trong thực tế, hành vi của họ cho thấy họ cần đám đông ủng hộ nhưng lại thiếu mất sự quan tâm xã hội cách đích thực. Chính sự thiếu quan tâm đủ, thiếu đồng cảm cho những vấn đề xã hội, những con người, những sự kiện mà họ đang “like” và “share” cho thấy sự dửng dưng của Nghiện ngập và lệ thuộcNghiện là sự lặp lại liên tục của một hành vi bất chấp hậu quả xấu. Nghiện ngập làm hư hỏng thể xác, tiền bạc, tâm trí và thanh danh của con người và gia đình niệm nghiện ngập đã có nhiều thay đổi trong thời gian gần đây. Từ chỗ khái niệm đó chỉ sự lệ thuộc vào chất gây nghiện như rượu, thuốc lá, các loại ma túy và các loại thuốc gây nghiện tương tự. đến chỗ khái niệm này chỉ cả những người lệ thuộc vào những thứ khác như cờ bạc, tình dục, mua sắm. và gần đây, là việc sử dụng smartphone, internet, tới nay, chưa có mã bệnh nghiện mạng xã hội, nghiện điện thoại thông minh, nghiện máy tính nối mạng Internet. Tuy thế, dựa trên thực tế, nhiều nhà nghiên cứu bắt đầu nhận thấy rằng nét tính cách trầm cảm và việc tự hạ thấp bản thân liên quan đến việc sử dụng và nghiện facebook. Qua quan sát và số liệu thực, người ta thấy ngày càng nhiều bạn trẻ phải nhập bệnh viện tâm thần điều trị bệnh trầm cảm, hoang tưởng vì chứng nghiện mạng xã hội, sử dụng điện thoại liên tục nhiều giờ. Điều này khiến nhiều người không khỏi giật mình vì thói quen “ôm” điện thoại, máy tính, vào mạng xã hội đã trở nên phổ biến ở cả trẻ em lẫn người ngập tự nó dẫn đến những hành vi lệ thuộc vào chất gây nghiện. Cũng thế, việc nghiện ngập công nghệ truyền thông quá nhiều sẽ gây ra tình trạng phụ thuộc. Đối với nhiều người trẻ và cả người trưởng thành, mạng xã hội đã trở thành một thói quen, đam mê hằng ngày không thể thiếu, dễ dẫn tới hiện tượng “nghiện” ở nhiều bạn trẻ, khi không kiểm soát được thói quen này. Điều này khiến họ bỏ quên thời gian dành cho học tập, công việc, dần biến họ thành những người phụ thuộc và bị thao túng thời gian, thậm chí cả quyền riêng tư, sức khỏe, vật chất... Ví dụ, khi gặp vấn đề nào khó khăn thì điều đầu tiên họ nghĩ tới là “google” và tìm kiếm thông tin. Khi bị lệ thuộc vào các thiết bị công nghệ truyền thông, người trẻ sẽ dần cảm thấy không thể thiếu và rời xa được những thói quen này; cảm giác gần gũi, trò chuyện với bố mẹ, người thân và bạn bè sẽ dần mất đi; chúng thường có xu hướng phản ứng dữ dội khi bị ngăn cản chơi và sử dụng các thiết bị công nghệ này, không nghe bất cứ điều gì từ ba mẹ lệ thuộc này không hiểu theo nghĩa của chẩn đoán những dạng rối loạn nhân cách lệ thuộc; nhưng đó là nguy cơ tiềm ẩn cho các gia đình trẻ. Chúng tôi sẽ bàn tới ở phần đánh giá của chuyên gia, việc nghiện ngập mạng xã hội có thể gây ảnh hưởng, khiến hệ thống não bộ của con người hoạt động mất cân bằng, giảm khả năng tiếp thu, gây những bất thường về tâm lý, thậm chí dẫn tới tâm thần. Dù nghiện ngập là một thứ bệnh làm đảo lộn hệ thống dây thần kinh não bộ, đặc biệt ở giới thanh niên; nhưng sự biến đổi này không phải vĩnh viễn nếu hiểu biết sâu xa vấn đề ta có thể cải thiện và sửa Sống ảoMột vài nghiên cứu gần đây cho thấy, việc lệ thuộc vào những thiết bị công nghệ truyền thông sẽ khiến người trẻ gặp nhiều vấn đề về mặt cảm xúc, kỹ năng xã hội... Đặc biệt, khi bị lệ thuộc vào các công nghệ truyền thông, hay chính xác hơn là mạng xã hội, người trẻ thường xa lánh với cuộc sống bên ngoài, gặp vấn đề khi giao tiếp, các kỹ năng sống cũng bị mất dần đi. Đối với không ít người, việc tiếp xúc và giao tiếp bằng ngôn ngữ, cử chỉ là điều vô cùng quan trọng, nhưng khi bị lệ thuộc vào thế giới công nghệ và mạng xã hội, cuộc sống của trẻ sẽ trở nên đơn giản, vắn tắt, khá đơn điệu và nhàm chán, các kỹ năng xã hội gần như không đáng nói, khi người trẻ có kỹ năng xã hội kém, họ sẽ cảm thấy rất khó để giao tiếp với mọi người vì thế sẽ co mình lại, rất dễ cảm thấy cô đơn, trầm cảm và xa lánh cuộc sống. Theo ThS. Trần Mạnh Hoàng, họ dần bị rơi vào ảo giác ăn, ngủ, nằm mơ… trong thế giới ảo, cứ như thế chúng tách biệt với thế giới bên ngoài và rơi xuống những hố sâu mà chúng không có phản kháng gì. Và khi chúng bước ra cuộc sống thực, tâm lý cô đơn, bơ vơ, hoang mang và sợ hãi là điều dễ khác, bước vào thế giới mạng xã hội, người trẻ sống trong một thứ ảo tưởng quyền lực, ảo tưởng về sức mạnh bản thân. Trong mạng xã hội, họ có thể tô vẽ về bản thân họ theo cách của họ muốn từ vóc dáng, thể hình cho đến tính cách, năng lực và nhiều thứ khác mà họ mong muốn... cũng không Hội thảo “Tác động của Mạng xã hội tới tâm lý người dùng” gần đây, các nhà chuyên môn ở Việt Nam đã cảnh báo những dấu hiệu từ nghiện mạng xã hội đến sống ảo; dần dần phát triển thành những bệnh lý tâm thần như trầm cảm và đặc biệt là hoang vài kết quả và nhận định từ Dailymail cho thấy thế giới số đang làm thay đổi xã hội theo cách khiến chúng ta có cảm giác như đang bị giám sát. Mọi hành động của chúng ta đang bị theo dõi và mọi việc chúng ta làm được ghi lại theo cách nào đó qua internet. Điều đó có thể gây ra cảm giác lo âu về việc có ai đó muốn gây hại cho bạn hoặc theo dõi bạn[6]. Chứng hoang tưởng có thể được phân loại từ nhẹ tới nặng, từ ảo tưởng tới những nghi ngờ phóng đại. Người trẻ có nguy cơ cao nhất vì họ sử dụng mạng xã hội nhiều[7]. Theo báo cáo, trẻ em từ 11 đến 18 tuổi ở Anh và xứ Wales đã được nhập viện vì tự gây tổn thương vào năm 2015-2016 - tăng 14% so với năm trước. Mạng xã hội bị xem là nguyên nhân về sự gia tăng tỷ lệ tự làm hại ở giới trẻ[8].Evgeny Morozov trong cuốn sách The Net Delusion Ảo tưởng trên mạng chỉ trích rằng, các mạng xã hội đã tạo ra một thế hệ của những “slacktivists” một khái niệm mới xuất hiện, chỉ những người chỉ tham gia những hoạt động xã hội bằng cách cập nhật status hoặc trang hoàng blog với những lời lẽ đãi bôi, thay vì dấn thân hoạt động thật sự. Mạng xã hội đang khiến con người trở nên chây lười và sống trong sự ảo tưởng rằng hành vi nhấn chuột cũng tương đương với việc tham gia một hoạt động nhân đạo cần đến sự đóng góp tiền bạc và thời cách khác, thế giới của mạng xã hội cho phép họ vượt ra khỏi sự tự ti vốn có của họ. Nó cho họ cái quyền được thể hiện mình như mình muốn và rất tự tin để thực hiện vì nó ảo. Họ cảm thấy mình có được sức mạnh hơn trong đời thực, mình có những quyền lực riêng trong thế giới ảo này và được quyền sử dụng quyền lực đó. Chính khi sống trong một thế giới ảo mà dần dần hành vi và ứng xử của người trẻ cũng dần dần thay đổi mỗi Thay đổi hành vi và ứng xử bạo lựcCác tác giả H. Long, Phạm Ngọc và Quỳnh Hương trong bài viết “Tội đồ truyền thông”[9] ghi nhận theo thống kê, cả nước hiện nay có khoảng 5 triệu người chơi game online thường xuyên, trong đó có khoảng 1 triệu game thủ chuyên nghiệp. Số game online người Việt Nam có thể chơi là 35, trong đó, 27/35 game mang tính bạo lực 77%, 9/27 game bạo lực 33%. Ở góc độ nhập vai trong các game bạo lực, có tới 10/27 game có góc độ nhập vai không rõ ràng đâm chém, bắn giết không phân biệt tốt xấu.Đàng khác, tràn lan trên internet và các trang mạng xã hội những thông tin, những bài hát, những video clip mang tính bạo lực, cổ võ lối sống tự do tình dục, ... Chúng nhiều đến độ, khi người trẻ nhìn thấy chúng, họ coi đó là những điều bình thường. Những điều bất thường đã trở thành điều bình thường và sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hành vi và những ứng xử của người góc nhìn của tâm lý học, thông qua các mạng xã hội, truyền thông xã hội đang làm thay đổi hành vi và ứng xử của không ít người. Theo Watson, một hành vi xuất hiện khi xuất hiện kích thích. Tự nó, đó là một phản xạ có điều kiện. Hành vi đó, theo quan niệm của Thorndike và Skinner, sẽ tiếp diễn hoặc ngừng lại bởi chính sự ủng hộ hoặc cản trở lý đám đông đang có ảnh hưởng rất lớn trong tiến trình dẫn dắt hành vi của người trẻ. Hiện tượng tâm lý đám đông có thể là những sự kiện và hiện tượng đang diễn ra và thu hút họ; cũng có thể là những sự kiện đời thường, những nhân vật nổi tiếng. Thông thường, những thông tin từ ảnh hưởng của đám đông thường rất mơ hồ, khó đoán định và thiếu sót. những lại rất dễ bị dụ dỗ và cuốn hút. Và không chỉ như thế, những hành vi của đám đông cũng là hiện tượng dễ bị cuốn hút người trẻ. Họ “ném đá” nhau mà không cần biết sự thực đàng sau tất cả là gì. Họ bày tỏ thái độ với tất cả mọi vấn đề; thậm chí có vấn đề chẳng quan trọng và chẳng liên quan đến họ. Chỉ cần đông người là hiểm hơn, việc thường xuyên chơi game online và sống trong ảo giác sẽ gây ra những hành vi dần ảnh hưởng đến đạo đức, làm tha hóa nhân cách, lệch lạc về nhận thức, từ đó dẫn đến những hành vi tiêu cực, có thể hủy hoại tương lai của giới trẻ. Tình trạng bạo lực học đường, xâm hại tình dục, trộm cắp. xuất hiện ngày càng nhiều cũng một phần có lý do từ những phim ảnh đồi trụy, kích động bạo lực trên internet, những trò chơi khuyến khích con người hóa giải mâu thuẫn bằng việc “thanh toán” lẫn nhau; thậm chí có những bạn trẻ chết trên bàn phím vi tính vì bỏ ăn, quên ngủ để chơi game. Thói quen và những hành vi bất thường mang tính bạo lực đó cũng đã và đang được hành xử ngay trong thế giới thực khi mà những người trẻ đã bị nhiễm cách ứng xử từ sự biến đổi hành vi của họ từ thế giới mạng mà họ đã và đang tham gia mỗi đồng Giáo hoàng về truyền thông xã hội cũng xác quyết “Các phương tiện truyền thông đôi khi được dùng để làm tha hóa con người hay gạt bỏ ra ngoài lề rồi cô lập con người; lôi kéo con người vào những cộng đồng băng hoại được tổ chức xoay quanh các giá trị giả dối và phá hoại; cổ vũ sự thù nghịch và xung đột biến người khác thành ma quỷ, tạo ra một não trạng phe ta' chống lại phe chúng'; phô diễn những điều hèn hạ, thấp kém bằng sự hào nhoáng, trong khi lại không màng tới hay xem thường những gì cao quý và có giá trị, phổ biến những thông tin sai lạc, thất thiệt, hoặc ủng hộ những gì là xoàng xĩnh, tầm thường”. Mất khả năng phân địnhNhững năm gần đây, người ta bắt đầu bàn về một thứ quyền lực mềm. Khái niệm này đã được đề xuất 1990[10] và giải thích 2004[11] bởi giáo sư Joseph Samuel Nye, Jr. ở đại học Nye, quyền lực mềm là dùng khả năng giành được những thứ mình muốn thông qua việc gây ảnh hưởng để khiến người khác làm theo những gì mình muốn. Một đặc điểm của quyền lực mềm là không cưỡng bức, ép buộc; khác với quyền lực cứng, quyền lực mềm đạt được những gì mình muốn bằng cách tác động tới hệ thống giá trị của người khác, làm thay đổi cách suy nghĩ của người khác, và qua đó khiến người khác mong muốn chính điều mà mình mong muốn. Đó là quyền lực mềm, thực hiện thông qua sự hấp dẫn và thuyết “like” và “share” những thông tin trên mạng xã hội cách vội vã và thiếu kiểm chứng, và được lồng vào trong đó cảm xúc của cá nhân đang tạo nên một hiệu ứng lây lan mang tính bầy đàn. Thậm chí, nhiều khi chỉ cần thấy tên của người đưa thông tin, tiêu đề của thông tin cũng đủ để cho nhiều người bình luận và thể hiện thái độ như những “anh hùng bàn phím” và như “những nhà đạo đức mạng”. Điều đó cho thấy mạng xã hội không có chỗ cho sự phản biện qua lại cách công bằng, thẳng khác, chính sự thôi thúc bày tỏ thái độ như đi tìm và chứng tỏ quyền lực mềm của mình mà nhiều người đã tích cực đưa những thông tin mà mình chưa kiểm soát đủ; hay nói cách khác, thiếu sự phân định đúng/sai, thật/ảo của chính thông tin mình chia sẻ với cộng đồng. Còn nhớ, dịp kỷ niệm 40 năm giải phóng thành phố, một trang mạng đã đưa thông tin với hình chụp một nữ tu trẻ đi trong đoàn diễu hành cùng với một ni cô trẻ với ý định gán ghép sự gian dối của chính quyền khi sử dụng các nữ tu giả. Thế là bức hình được chuyển tải cách chóng mặt và được liên kết với một bài viết cách đó vài năm trước về một trường hợp mạo danh nữ tu một hội dòng để đi lừa đảo. Thực ra, người ta không khó khăn để nhận thấy hình ảnh của hai người này khác nhau và cả tu phục họ mặc cũng khác nhau. Nhưng dường như sự phân định ảo - thật không còn nữa. Khi tìm ra được trang mạng đã đưa tin này lên đầu tiên, bản thân tôi đã viết thư nhắc nhở - chị nữ tu này là thật và là học trò của tôi - và họ đã gỡ bỏ xuống với lời xin lỗi; nhưng những người quen biết được tôi nhắn tin gỡ bài thì lại không thể thực hiện Carr, trên một bài xã luận viết cho tạp chí Atlantic, với tiêu đề được nhấn mạnh Is Google making us stupid? Google đang làm chúng ta ngu đi? đã gợi ý rằng việc sử dụng Internet đã làm thay đổi cách thức chúng ta động não, qua đó làm giảm khả năng nhận biết và xử lý những khối lượng lớn thông tin, chẳng hạn các bài viết chuyên ngành hay sách động và lười suy nghĩ; nói cách khác, đánh mất khả năng phân định, tư duy phản biện, nhiều người trẻ tham gia mạng xã hội như một thứ robot. Công cụ Google giúp cho việc tìm kiếm thông tin trở nên dễ dàng, giúp cho việc học tập thuận lợi hơn. Nhưng những gì mà mạng xã hội cung cấp cho thấy rõ là không phải hoàn toàn tất cả đều đúng. Một thông tin được kiếm tìm từ mạng xã hội nếu không được phân định và phản biện sẽ là một điều nguy hiểm. Trong thực tế, dường như khả năng “copy” và “paste” đang gắn liền với không ít người trẻ. Việc đầu tư suy luận, lập luận, phản biện và phân định của người trẻ dường như đang mất dần cùng với sự phát triển của hệ thống truyền thông xã hội với những công cụ của Hạ thấp phẩm giá của người khácNhiều người trẻ khi tham gia mạng xã hội - đặc biệt là các bạn rơi vào tình trạng nghiện mạng xã hội - ít có thời gian tiếp xúc với thế giới thực. Không chỉ suy giảm các quan hệ xã hội, các kỹ năng sống và giao tiếp xã hội... mà nguy hiểm hơn, họ dùng mạng xã hội như một nơi chốn để giảm stress qua việc soi mói, phê bình chỉ trích bất cứ ai, bất cứ điều gì họ bắt gặp trên thế giới mạng. Thậm chí, không chỉ là không phân định mà còn không ít lần là sự cố ý với những ác ý dẫn đến sự vi phạm trắng trợn phẩm giá hay nhẹ hơn là sự hạ thấp phẩm giá của người Sứ điệp ngày truyền thông lần thứ 43, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết, “nếu các công nghệ kỹ thuật mới phải phục vụ cho thiện ích của các cá nhân và xã hội, thì những người sử dụng chúng phải tránh sự chia sẻ những lời nói và hình ảnh làm mất phẩm giá con người, và như thế loại trừ những gì đang nuôi dưỡng lòng hận thù và sự bất bao dung, những gì làm giảm phẩm giá vẻ đẹp và sự sâu kín của giới tính con người, những gì khai thác những người yếu đuối và những người dễ bị tổn thương”.Sự tôn trọng phẩm giá của con người trong thế giới truyền thông xã hội được thể hiện qua việc tôn trọng những quyền giữ gìn sự riêng tư và chọn lựa hình ảnh xuất hiện trước công chúng; nhìn nhận những cảm xúc và phần phẩm chất tốt đẹp của họ, thể hiện bằng niềm tin họ là những con người có nhu cầu tự khẳng định bản thân, tự trọng, lương thiện, hướng thiện... và lắng nghe tiếng nói của họ, lắng nghe thân phận và nguyên nhân sâu xa cái nghèo khổ của thực tế, những hình ảnh đầy những hành vi xúc phạm nhân phẩm của người khác tràn ngập trên mạng như như một người bị lột quần áo trước mặt người khác, bị nhốt vào chuồng nuôi súc vật, bị bắt ăn những thứ không dành cho người, bị bắt quỳ lạy hoặc chui háng một người khác... Cùng với không ít những lời nói, thông tin, cử chỉ. mang tính thóa mạ, chửi rủa người khác... đang là những hành vi xúc phạm nhân phẩm con khác, ngay cả những thông tin về những người nghèo, những dịp bác ái xã hội dành cho người nghèo, già cả, neo đơn được cung cấp không tế nhị cũng đang là những con đường làm cho phẩm giá của con người - đặc biệt những con người đang trải qua những kinh nghiệm đau khổ này tiếp tục bị hạ giá tới mức thấp nhất. Tác giả Trần Thị Thanh Hương trong bài “Phẩm giá con người trong truyền thông đại chúng”[12] đã kết thúc bài viết của mình rằng, “Phẩm giá chỉ được coi trọng nếu họ được nhìn nhận như là những con người có những nhu cầu và quyền lợi như vậy, cái quyền của một công dân lên tiếng về thân phận, hơn là chỉ mô tả họ như những người đang nhận sự ban phát từ thiện của mọi người”. Những hệ lụy trên gia đình Phá vỡ tương giao thựcNếu xét dựa trên các yếu tố của một cuộc truyền thông được nêu lên trong phần khái niệm thì rõ ràng các thiết bị kỹ thuật và mạng xã hội đã thay thế những kênh truyền thông trực tiếp. Trong nhiều gia đình, giao tiếp và tương giao liên nhân cách đang được thực hiện qua các thiết bị kỹ thuật và mạng xã hội. Những người trẻ có thể ngồi “chém gió” thâu đêm với bạn bè trên các trang mạng nhưng lại không thể dành chút thời gian để tâm sự, nói chuyện cùng cha mẹ, người thân trong gia đình, dần dần mọi thành viên trong gia đình trở nên lạnh nhạt, xa cách, thiếu quan tâm, chăm sóc lẫn Thánh Cha Bênêđictô XVI đã cảnh báo về điều này “Thật đáng buồn biết bao nếu ước muốn nâng đỡ và phát triển tình bạn online của chúng ta được thể hiện với giá phải hy sinh sự sẵn sàng của chúng ta cho gia đình, cho bà con thân thuộc của chúng ta và cho những người mà chúng ta gặp gỡ trong thực tế đời thường, nơi làm việc của chúng ta, ở trường học, trong thời gian rảnh rỗi. Quả thế, khi ước muốn kết nối ảo trở nên ám ảnh, thì hậu quả là người ấy tự tách mình, cắt đứt một mối tương tác xã hội thực sự. Thậm chí điều đó cuối cùng phải làm theo xáo trộn thời gian nghỉ ngơi, thinh lặng và suy nghĩ cần thiết cho một sự phát triển nhân bản lành mạnh”[13].Giáo sư Sherrey Turkle tại học viện công nghệ MIT viết trong cuốn sách mới nhất của bà, Alone Together Cùng nhau đơn độc đã cho rằng công nghệ đang đe dọa thống trị cuộc sống của nhân loại, và làm chúng ta ngày càng mất đi “tính người” của mình. Bằng cách gây ra ảo tưởng rằng những mạng xã hội đang giúp con người giao tiếp và kết nối với nhau dễ dàng hơn; trên thực tế, chúng ta đang ngày bị cách ly với thế giới tương tác thực giữa người với người, dưới hình thức một không gian thực - ảo mà bản chất chẳng qua chỉ là một sự mô phỏng dị dạng của thế giới thật. Bà cho rằng, “Một hành vi tuy đã trở nên phổ cập như giao tiếp thông qua mạng xã hội vẫn có thể cho thấy những vấn đề mà chúng ta gọi là triệu chứng bệnh lý”. Khi đề cập đến việc bà từng tham dự những đám tang mà ở đó người ta vẫn không bỏ được thói quen hí hoáy trên chiếc iPhone của họ, bà hóm hỉnh “Mỗi người đều có cách tạm biệt người quá cố theo cách riêng của mình”.“Các công nghệ kỹ thuật số mới quyết định những thay đổi căn bản nơi các khuôn mẫu giao tiếp và nơi các tương quan nhân loại. Những thay đổi này đặc biệt rõ ràng nơi giới trẻ mà sự trưởng thành của họ liên hệ chặt chẽ với những công nghệ kỹ thuật truyền thông này. Bởi thế, họ cảm thấy thoải mái trong thế giới kỹ thuật số mà, trái lại, thường dường như xa lạ với một số người trong chúng ta”[14].Nhiều học giả cũng đã lên tiếng về sự đổ vỡ của tương giao thực này do thế giới mạng xã hội “Quá nhiều cách giao tiếp khác nhau đang được sử dụng trong việc giao tiếp đã gây ra sự sợ hãi cho nhiều người”. Khái niệm “thế giới thực” mà nhiều người chỉ trích hay nhắc đến thật ra chưa bao giờ tồn tại. Trước khi người ta lên xe buýt hoặc tàu điện ngầm với hai mắt dính vào chiếc iPad hay điện thoại thông minh, thì họ vốn dĩ cũng chưa bao giờ giao tiếp với nhau một cách thật sự. “Chúng ta không bao giờ thấy mình mở lời một cách tự nhiên với người lạ”[15].Trong thực tế, không ít những gia đình trẻ, vợ chồng chỉ giao tiếp với nhau bằng những công cụ truyền thông kiểu mới ngay cả khi họ đang ở cùng nhau trong một mái nhà. Bởi lẽ, dường như họ không hòa nhập được với cuộc sống thực của họ; họ mải mê sống với thế giới ảo và đến khi tắt máy, đối mặt với thế giới thực tại lại thấy xa lạ, khó hòa gì sẽ xảy ra khi hai con người thật, sống trong một mái nhà thực nhưng kết dệt nên một tương giao ảo? Nói cách khác, những con người thực đang đánh mất dần cái thực rất thực của một nhân vị và cũng đang có khuynh hướng hạ giá nhân vị của Đổ vỡ quan hệ của gia đình truyền thốngKhi những thiết bị kỹ thuật hiện đại gắn liền với mạng xã hội đang phá vỡ tương giao thực của những thành viên trong gia đình, nó cũng đang hủy hoại mối quan hệ của gia đình truyền thống. Các thành viên trong gia đình, vợ chồng với nhau, cha mẹ với con cái, thậm chí cả ông bà với các cháu không còn giờ cho nhau vì quá bận rộn với các thiết bị truyền thông trong bữa ăn gia đình, mỗi người dán mắt vào trong màn hình thiết bị của mình thay vì đó là khoảng thời gian trò chuyện cùng nhau bên mâm cơm. Bữa cơm được diễn ra vội vàng, mau chóng như một thủ tục của bản năng sống ăn; để mau chóng tiếp tục với các thế giới rất riêng biệt của mình với những thiết bị trên tay. Những cuộc trò chuyện thân mật giữa các thành viên của gia đình truyền thông đã biến mất. Trong khảo sát năm 2000 về “mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng trẻ”[16], kết quả cho thấy, vợ chồng nào càng dành ít giờ để trò chuyện với nhau, mâu thuẫn càng nhiều và càng Luật sư Andrew Newbury, người Anh cho biết, hiện nay facebook đã xuất hiện trong các vụ ly hôn, là nguyên nhân gây tan vỡ hạnh phúc gia đình. Nhiều cặp vợ chồng đã nghi ngờ nhau từ việc sử dụng mạng xã hội đã dẫn đến các cãi vã, bất hòa. Nhiều người ít thời gian dành cho gia đình, biến tổ ấm của mình thành nơi ứng dụng' các công nghệ, khiến cho hôn nhân lạnh lẽo, tình cảm khô cứng[17].Trong quá trình đồng hành với các gia đình, không ít lần bản thân người viết cũng chứng kiến những đổ vỡ tương quan giữa mẹ chồng và nàng dâu vì bác “Google” xen vào. Câu chuyện đổ vỡ liên quan đến sự tín nhiệm vào bác Google quá mức, không chấp nhận những kinh nghiệm nuôi dạy con của mẹ chồng, dẫn tới chỗ không đồng ý cho bà nội đụng tới cháu vì sợ nguy hiểm, không an toàn vì bà nội nuôi dạy trẻ không đúng phương pháp mà bác Google đã tư Gây ra những tổn thương cho con trẻ trong gia đìnhTheo những nghiên cứu từ các nhà tâm lý học và sức khỏe nhi thì sự tương tác, tiếp xúc giữa trẻ nhỏ với những người xung quanh những vật chuyển động trước mặt sẽ góp phần rất lớn trong việc hình thành các kĩ năng giao tiếp và ứng xử xã hội. Bởi thế, khi cha mẹ bỏ qua việc giao tiếp thường xuyên với con cái là đang dần đánh mất các mối quan hệ và sự phát triển bình thường của trẻ. Đây chính là những nguyên nhân gây ra hội chứng ngại tiếp xúc, tự kỷ ở trẻ em, thậm chí dẫn đến những hành vi thiếu kiểm xã hội, tin nhắn, trò chơi điện tử... đã lấy mất rất nhiều thời gian của những ông bố bà mẹ trẻ khiến họ không còn thời gian để quan tâm và chăm sóc con cái, không có thời gian nói chuyện với con, chơi với con, dạy con học, đọc truyện cho con nghe, nhưng lại có rất nhiều thời gian cho những lần lướt web, cho những cuộc điện thoại tán gẫu với bạn bè. Việc bố mẹ nghiện công nghệ đã đành, ngày nay, các ông bố bà mẹ hiện đại còn mắc sai lầm khi để trẻ tiếp xúc và nghiện các thiết bị điện tử từ rất gia đình trẻ, không gian buổi tối của gia đình thật “êm ả”; thậm chí “êm ả” ngay cả khi họ đang đi tận hưởng thời gian giải trí bên ngoài cùng nhau. Sự “êm ả” đáng sợ bằng hình ảnh mỗi người một smartphone trên tay. Đứa trẻ, lẽ dĩ nhiên, để tránh phiền toái cho cha mẹ cũng được sắm phần của mình và tha hồ xoay xở với thiết bị của mình. Các bậc cha mẹ trẻ đã quên mất, hoặc chưa từng biết rằng họ đang đẩy con cái họ vào chỗ nguy các nhà trị liệu[18], các yếu tố ảnh hưởng lớn trong quá trình phát triển của nhân cách kiểu phụ thuộc thường liên quan đến giáo dục từ thời thơ ấu, giai đoạn hình thành và phát triển tốt nhất các tính cách của con người. Đó là thời điểm mà đứa trẻ hình thành phẩm chất con người, và để đạt được điều đó, nó cần được tôn trọng, yêu thương và bảo vệ. Nếu những điều này không được lấp đầy, có nguy cơ hình thành những cảm xúc thiếu an toàn và đẩy nó tìm kiếm sự thỏa mãn bằng mọi giá để đạt được sự nhìn nhận; nó đấu tranh chống lại nỗi sợ bị bỏ quên, bỏ rơi bởi những người nó yêu thương, và nó bắt đầu con đường hình thành nhân cách phụ thuộc. Một đứa trẻ đang tự bơi' một mình với các thiết bị công nghệ được cha mẹ trao cho đang cố gắng xoay sở và dần lệ thuộc vào với những thiết bị này. Đó là một nguy cơ khó tránh khỏi trong tương khá nhiều nghiên cứu, điện thoại di động tự nó không phải là một rối loạn, nhưng việc dùng quá mức điện thoại di động sẽ làm cho con trẻ bị thiếu kỹ năng giao tiếp, chiếm mất nhiều thời gian, gây mất tập trung, giảm hiệu suất tổng thể cả trong công việc hằng ngày lẫn học tập so với nhóm dùng điều độ. Người nghiện điện thoại thường có thói quen dùng “dế yêu” làm việc thay não bộ trong các công việc cần ghi nhớ. Bởi đã có “bộ nhớ khác” làm thay cho não nên não trở nên trì trệ, làm cho khả năng tái tạo thông tin của não giảm mạnh. Thời gian nghiện càng dài thì mức độ suy giảm trí nhớ càng lớn, chưa kể tác động của môi trường và tuổi khác, các chuyên gia cũng cảnh báo rằng, việc trẻ nhỏ mê mệt với các thiết bị điện tử hay việc cha mẹ mải mê với các đồ công nghệ cao đến nỗi lấy mất đi cả thời gian chăm sóc con đã và đang dẫn đến những hệ quả rất xấu. Cô đơn, nghèo cảm xúc, mất sự tương tác với xã hội, thiếu sự gắn kết giữa cha mẹ - con cái, gặp các vấn đề về sức khoẻ như với cột sống, thần kinh... Thực tế, các nhà trị liệu và lâm sàng đã gặp rất nhiều trường hợp trẻ bị mắc chứng rối loạn hành vi, suy nhược, lo lắng, cảm tính lưỡng cực, chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế và rối loạn tăng động giảm chú ý ADHD. Tất cả đều có thể liên quan đến việc sử dụng công nghệ quá trình đồng hành với các gia đình trẻ, tôi cũng nhận thấy rằng, nhiều bà mẹ trẻ mê mẩn với các thiết bị và mạng xã hội ngay cả khi cho con bú. Một phản ứng rất dễ thấy trong trường hợp này là bé không ăn và khóc vì không được quan tâm. Nhiều bà mẹ vẫn cho rằng con mình bị đau bệnh gì đó hoặc phải “vía, hơi lạnh..nên khóc quấy. Giải thích từ các nhà tâm lý cho thấy vào tuổi này, đặc tính của trẻ là sự hòa mình của trẻ với đối tượng chăm sóc nó. Đó là mối tương quan sớm mẹ - con theo quan điểm của Anna Freud và cha mình là S. Freud. Chính sự gắn bó thường xuyên làm cho trẻ và mẹ hiểu nhau hơn. Mối quan hệ này sẽ trở thành nguyên mẫu cho mọi quan hệ tình cảm và các quan hệ xã hội sau này của và một số nhà nghiên cứu khác như Sroufe & Fleeson 1986, đều có cùng quan điểm như cha con Freud và còn thêm rằng, sự tin cậy và tình thương trong quyến luyến an tâm ở tuổi này sẽ giúp trẻ tương tác thành công và tin cậy với bạn đồng tuổi; và ngược lại sẽ gặp nhiều rắc rối trong tương tác xã hội như thích phê phán, ứng xử thù địch. Vô tình, mẹ đã là nguyên nhân gây ra những vấp váp về mặt tâm lý cho Đại hội của các bạn Thanh Sinh Công nêu ở phần trên, các bạn cũng phân tích rằng “nguyên nhân chính của việc không hoặc thiếu sự phân định giá trị thật - ảo của người trẻ là thiếu định hướng xã hội, cô đơn, ít giao tiếp với mọi người, gia đình không quan tâm, thiếu tương tác xã hội, không sẵn sàng cởi mở giao tiếp trực diện với người khác, và các ức chế tâm lý cần được giải thoát, cùng với việc muốn thể hiện mình, thích được khen, được tôn vinh, được chấp những khiếm khuyết, những thiếu hụt, do sợ hãi và cảm nghiệm sự không an toàn, mà người trẻ đăng tải những thông tin không chính xác, tạo nên thông tin ảo. Hoặc do sự “tự do” gần như tuyệt đối trong khi sử dụng, và không có những ràng buộc trách nhiệm hay ý thức nhân bản, người trẻ dễ dàng lên án, phê phán, hùa theo, ủng hộ những trào lưu tràn lan phổ biến... Những điều này tạo nên giá trị khác, những trục trặc từ chính nhân cách của người trẻ cũng góp phần làm cho việc phân định giá trị thật hoặc ảo trong thông tin được tiếp nhận trở nên khó khăn”[19].Xin dùng kết quả phần xét dưới giá trị của Tin Mừng của chính các bạn trẻ Thanh Sinh Công để kết thúc như một xác quyết và như một gợi mở“Chính Thiên Chúa là người thực hiện đầu tiên việc truyền thông. Một cuộc truyền thông đích thực nhằm kéo con người đến gần Thiên Chúa. Thiên Chúa đã thực hiện một cuộc truyền thông quyết liệt và trọn vẹn, khi Nhập Thể xuống thế và trải qua cuộc Khổ nạn, để truyền một thông điệp trọn vẹn cho Tình Yêu Vĩnh Hằng của Thiên Chúa dành cho con người. “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” Dt 1,1. Nói cách khác, Chúa Giêsu là người Thầy, là gương mẫu của mọi sứ vụ truyền thông hiệu quả, “Thầy là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống” Ga 14,5.Ngang qua con đường truyền thông communication, Thiên Chúa quy tụ con cái ngài thành một cộng đoàn community trong sự hiệp thông communion với Ngài và với nhau. Đây chính là mục tiêu của việc Thiên Chúa truyền thông cho con người. Con đường này được trao phó và đang được tiếp nối trong sứ vụ của Hội Thánh. Xuyên qua các thời đại, Hội Thánh dùng những phương tiện khác nhau để thi hành mục tiêu này. Bởi thế, dù có những kênh truyền thông khác nhau, sứ điệp được loan báo vẫn chỉ là một và luôn mang giá trị thật. Chính qua sứ điệp/thông tin information được loan báo, dân Chúa được dẫn dắt đi vào trong cuộc đào luyện formation để thực hiện cuộc biến đổi transformation tận căn đời sống của mình. Nói cách khác, trong mẫu thức truyền thông của Thiên Chúa và Hội Thánh giá trị thật vẫn luôn được biểu lộ cách rõ nét qua mục tiêu và sứ điệp được bày tỏ”.Ước mong, những người trẻ và những gia đình trẻ gẫm suy và bắt đầu lại với sự đồng hành của những người có trách nhiệm trong giáo Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 106 Tháng 5 & 6 năm 2018[1] Kaplan Andreas M. and Michael Haenlein, Users of the world, unite! The challenges and opportunities of Social media. Business horizons 2010 59-68.[2] Murphy, Dhiraj, Towards a Sociological Understanding of Social media Theorizing Twitter, Sociology 2012, 461059.[3] Giang, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN Khoa học Xã hội và Nhân văn, tập 31, số 12015, 12-19[4] James E. Sullivan, Hành trình tự do, NXB Tôn Giáo 2003, Nhà tâm lý học Mark Barnett của Đại học bang Kansas.[6] Philippa Garety - giáo sư Đại học Hoàng gia Anh.[7] Theo Tổ chức từ thiện về sức khỏe tâm thần Mind.[8] Hiệp hội quốc gia về phòng ngừa bạo lực cho trẻ NSPCC ở Anh[9] Đăng ngày thứ ba 19/7/2011 trên báo Lao động cuối tuần[10] Nye, Joseph. Bound to Lead The Changing Nature of American Power New York Basic Books, 1990.[11] Nye, Joseph. Soft Power The Means to Success in World Politics. New York Basic Books, 2004.[12] Thời báo kinh tế Sài gòn 2009[13] Sứ điệp ngày thế giới truyền thông lần 43.[14] Sứ điệp ngày thế giới truyền thông lần 43[15] Giáo sư William Kist, chuyên gia đào tạo thuộc đại học Kent State, bang Ohio.[16] Trần Anh Thụ, Mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng trẻ, khóa luận tốt nghiệp Đại học - chuyên ngành tâm lý học, ĐHSP TPHCM.[17] Theo Tuyên bố chung của Đại hội Liên đoàn Thanh Sinh Công năm 2004.
PDF Tâm lý người Việt Nam nhìn từ nhiều góc độ, Trung tâm nghiên cứu tâm lý dân tộc Tin đăng trong 'Tâm lý học' bởi mod_van, Cập nhật cuối 25/06/2021. mod_van Moderator Staff Member Quản trị viên Tham gia 05/11/2019 Bài viết Lượt thích 61 Điểm thành tích Tâm lý người Việt Nam nhìn từ nhiều góc độ, Trung tâm nghiên cứu tâm lý dân tộc 281 trang Chủ đề mới hơn Sức mạnh của sự túng quẫn, Khi rỗng túi, nghèo đói sẽ tạo động lực lớn giúp bạn thành công, Daymond - 25/06/2021 giả kim thuật tài chính, đọc hồn thị trường, Geoge Soros, Người dịch Nguyễn Quang A, The alchemy of - 25/06/2021 Japan in Modern History, Primary school, Japanese School Textbook - 25/06/2021 Luyện tập thi vào lớp 10 chuyên ngoại ngữ - Môn Ngữ Văn, Hồ Thị Giang - 25/06/2021 Essential phonetics for Ielts, phiên bản song ngữ, Lê Huy Lâm chú giải - 25/06/2021 Chủ đề mới nhất Từ vựng học tiếng Anh, English Lexicology phiên bản 2014, Hanu - Hôm qua, lúc 1951 Tiếng Anh dành cho người dịch thuật, Ninh Hùng - Hôm qua, lúc 1939 WEb tải mới - Hôm qua, lúc 1915 Sách vần Anh ngữ, Nguyễn Trang Kim Ngân - Hôm qua, lúc 1633 Giáo trình tiếng Hán thương mại, Sử Trung Kỳ, Hồ Linh Quân, Vương Tiêu Đan - Hôm qua, lúc 1625 Chia sẻ trang này
Nếu không tiện đọc bài viết, bạn có thể nghe bản audio tại đâyTừ khi được dịch và ra mắt chính thức tại Việt Nam, cuốn sách “Tâm lý học dân tộc An Nam” đã gây ra không ít những cuộc tranh luận, bao gồm cả những ý kiến chỉ trích gay gắt, không phải vì Paul Giran chỉ ra những đặc điểm thấp kém của người An Nam, mà vì ông đã đặt dân tộc An Nam dưới lăng kính của chế độ thực dân đi “khai hóa văn minh”.Hàng cháo rong ở Sài từ trước khi người Pháp thuộc địa hóa xứ An Nam qua việc chiếm cứ các vùng đất, mở rộng kinh doanh, lập ra các đồn điền và chinh phục dân bản xứ để thực hiện các thiết đặt chế độ thực dân, các giáo sĩ phương Tây đã bỏ nhiều công sức để miêu tả chi tiết hình ảnh dân tộc An Nam. Trong đó có thể kể đến một số cuốn sách mới được xuất bản gần đây là Xứ Đàng Trong năm 1621 by Cristoforo Borri hay cuốn hồi ký “Xứ Đông Dương” của vị toàn quyền nổi tiếng Paul Doumer. Mục đích của những cuốn sách này là gì? Đó là tạo ra một cái nhìn rõ ràng hơn về xứ sở mà họ và những người khác đang tiếp tục làm công việc khai hóa văn minh và với các giáo sĩ là truyền giáo cho các dân tộc bản kết thúc thắng lợi của người Pháp, toàn bộ lãnh thổ An Nam đã được thiết lập bộ máy cai trị, từ đó nhu cầu về vấn đề hiểu rõ người dân bản xứ được đặt lên hàng đầu, một mặt được tuyên bố như những nguyên tắc nghiên cứu khách quan vượt ra ngoài lãnh thổ của một quốc gia cụ thể, mặc khác đó có thể coi như các thực hành khoa học nhằm cai trị những con người thấp kém hơn mà những tài nguyên, nguồn lực và lãnh thổ của họ đặt dưới trách nhiệm của người Pháp. Các thiết đặt của người Pháp từ đó trở về sau được hợp thức hóa, không phải với tư cách là người Pháp với người bản xứ, mà là với chính họ. Năm 1875, tại hội nghị quốc tế lần thứ hai về khoa học địa lí, có sự tham gia của Tổng thống Cộng hòa Pháp, Thống đốc Paris, Chủ tịch Quốc hội Pháp,... bài phát biểu của Le Noury đã bộc lộ thái độ hợp lý hóa các cuộc chinh phục của người Pháp “Thưa quý vị, Thượng Đế đã ra lệnh cho chúng ta phải gánh lấy bổn phận tìm hiểu Trái Đất và thực hiện một cuộc chinh phục nó. Mệnh lệnh tối cao này là một trong những nhiệm vụ cấp thiết được khắc sâu trong trí tuệ và hành động của chúng ta. Địa lí, môn khoa học truyền cảm hứng cho lòng tận tụy cao đẹp và nhân danh nó có quá nhiều nạn nhân đã hi sinh, đã trở thành môn triết học về Trái Đất.” 1 Có thể thấy phát biểu của Le Noury đại diện cho nhiều người, bao gồm cả toàn bộ dân tộc Pháp qua đại từ “chúng ta”, và đó là sứ mệnh vĩ đại không thể chối bỏ được ban ra từ một vị trí bất khả xâm phạm là Đấng tối đã hợp thức hóa sứ mệnh chinh phục và cai trị, những nghiên cứu của Paul Giran cũng không xa rời hệ thống các mục đích và và quan niệm đó. Ông không phải là người đầu tiên viết về dân tộc An Nam, nhưng là người đầu tiên áp dụng các lý thuyết về nhân chủng học một cách có hệ thống để mô tả tâm lý người An Nam. Với vai trò là một vị quan cai quản thuộc địa cho Pháp, để làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình, ông cho rằng nếu muốn “cai trị tốt một dân tộc, trước tiên phải học hỏi và tìm hiểu, phải biết rõ, phải thấu đáo tâm hồn, thần minh của họ.” Ông đã viết cuốn sách “Tâm lý dân tộc An Nam đặc điểm quốc gia; sự tiến hóa lịch sử, trí tuệ, xã hội, chính trị” nhằm thấu hiểu đời sống người An Nam. Cuốn sách được chia ra làm hai phần, phần đầu khái quát về tâm lý dân tộc An Nam qua các giả thuyết về nguồn gốc chủng tộc, điều kiện khí hậu và môi trường sống, phần thứ hai đi sâu vào phân tích tiến hóa về mặt nhận thức và trí tuệ của dân tộc An Nam trong suốt chiều dài lịch sử, sự phát triển ngôn ngữ, thương mại, nghệ thuật, giáo dục, chính trị – xã hội...Bắt đầu với đặc điểm quốc gia, Paul Giran đi vào mô tả nguồn gốc chủng tộc người An Nam, một đại diện của chủng tộc da vàng, với giả thuyết cho rằng nhóm người Việt đầu tiên thuộc nhánh “Indo-Mongoles” Cổ Mã Lai-Mông Cổ với nhiều đặc điểm giống với người Mông Cổ có hộp sọ ngắn, để phân biệt rõ với người Hán phía Bắc là nhóm đầu dài, và nét đặc trưng lớn nhất là “xương gò má rộng và cao, khiến cho khuôn mặt trông giống hình thoi hơn hình bầu dục” 2. Ông mô tả rằng người An Nam thuộc dạng thấp, chiều cao trung bình là 1m60 ở nam và 1m50 ở nữ. Đặc biệt hơn, đó là ông đã quan sát rất kĩ và nhận thấy bàn chân của người An Nam có ngón cái chìa ra ngoài và coi đó là một đặc điểm nhân chủng, nhưng đáng tiếc đó là một nhận định hoàn toàn sai lầm. Thực chất bàn chân có ngón cái chìa ra và cách xa các ngón khác như vậy là vì dân An Nam phần lớn là đi chân đất, do lao động và mang vác vật nặng nhiều trên các địa hình trơn trượt hoặc gồ ghề nên tổ chức xương bàn chân bị sụp. Kiểu biến dạng đó có thể thấy ở nhiều khu vực khác trên thế giới chứ không phải đặc điểm của riêng dân Giao tiết bàn chân Giao vào chi tiết hơn, Paul Giran so sánh người An Nam với dân tộc khác là người Hán—đế quốc đã cai trị và cố tìm cách đồng hóa người Giao Chỉ qua hơn mười thế kỷ. Dựa theo những suy luận là người dân Bắc kỳ một phần nào đó “vui vẻ, ồn ào, đôi khi dí dỏm” mang tính chất Quảng Đông nhưng do điều kiện địa lý cách xa trung tâm của nền văn minh Hoa Hạ, đất nước An Nam đã được bảo vệ theo một cách nào đó bởi vùng đệm văn hóa Lưỡng Quảng bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây và không bị đồng hóa một cách triệt Giran còn đưa ra sự đồng thuận với quan điểm của một người nghiên cứu về An Nam khác là Jean Baptiste Luro, đó là người Giao Chỉ sống ở điều kiện bán nguyên thủy, tại một xứ sở “bao phủ bởi rừng rậm dày đặc”, “cái nóng mùa hè sinh bệnh dịch nguy hại… Truyền thuyết của người An Nam về thời cổ đại có nói rõ rằng người Giao [Chỉ] mê tín, họ có đền thờ, họ cúng súc vật để hiến tế cho những thần linh bất tử đại diện cho sức mạnh thiên nhiên…” 3 Jean Baptiste Éliacin Luro, Henri Louis Gabriel de Bizemont, Le pays d’Annam.,“những điều người ta ghi nhận ở tất cả những dân tộc sơ khai, vào buổi bình minh của các nền văn minh”Lại một lần nữa, chúng ta phải xem xét đến cái nhìn của một người phương Tây về con người An Nam. Để giải thích cho vấn đề này, cần phải truy ngược lại về nguồn gốc của người Pháp là dân tộc Gauiois. Hầu hết người dân ở xứ sở này sống theo kiểu chăn thả du mục, họ lùa đàn gia súc đi từ nơi này đến nơi khác để kiếm vùng đồng cỏ tươi tốt hơn, không định cư lâu dài ở một nơi. Những nền văn minh phương Tây Hy-La cổ đại, Thiên chúa giáo trung đại, Tư bản chủ nghĩa cận đại đều coi thiên-tự nhiên là thù địch, do vậy cần phải chinh phục, thống trị và khai thác. Ngược lại, người An Nam với xuất thân từ nền văn minh lúa nước với đặc điểm là phải cố định một chỗ để chờ thu hoạch, lao động đồng ruộng cần nhiều nhân lực nên dễ tụ họp thành quần thể làng xã. Hơn thế nữa, việc trồng trọt phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm và đặc biệt là thời tiết, thế nên việc tôn thờ các vị thần đại diện cho sức mạnh thiên nhiên như Tản Viên sơn thánh, hệ thống chùa Tứ Pháp… hoàn toàn không phải mê tín như Luro đã sau đó, Paul Giran đi vào phân tích tính cách dân tộc An Nam dựa theo hai yếu tố được ông coi là nguyên nhân thể chất sinh lý và sự thích ứng của dân tộc đó với các môi trường khác nhau. Bằng biểu hiện thời tiết bao gồm mùa khô từ tháng Mười một đến tháng Ba và mùa mưa từ tháng Tư đến tháng Mười, độ ẩm cao, nóng nực và ẩm thấp quá mức chịu đựng của người Pháp, ông đã kết luận một cách đầy mơ hồ rằng ở một quốc gia văn minh như nước Pháp, khí hậu được cân bằng bởi các ảnh hưởng xã hội, còn ở một dân tộc mới bắt đầu tiến hóa, khí hậu tham gia vào việc định hình khí chất chung. Cụ thể là những người—giống như Hippocrate ghi lại—có tính khí cáu kỉnh, mệt mỏi do nóng nực; vì ẩm ướt làm giảm cảm giác tinh thần, thiếu sức sống và năng lượng nên dửng dưng, bình thản và thờ xét về vấn đề phân biệt chủng tộc theo hệ quy chiếu của thời đại ngày nay, có lẽ phần mô tả của Giran về nhà ở của người An Nam đều là những lí lẽ mang màu sắc thiếu thiện cảm. Ông viết “Về phương diện nhà cửa nói chung, rất dễ nhận ra sự đơn sơ thể hiện ở nội thất bên trong; chỉ có một hoặc hai chiếc phản lớn,... vừa là bàn ăn, là ghế lại vừa là giường… và một chiếc quan tài ở vị trí trang trọng, do những đứa con hiếu thảo tặng cho người một sự bẩn thỉu gớm ghiếc nữa, đó là những con lợn hoặc gia cầm được thả rông, hoàn toàn tự do; một cái ao gần đó và cũng là hồ bơi, là nơi trồng cải xoong lẫn hố ủ phân… và bạn sẽ có một bức tranh gần chính xác về sự tiện nghi của người An Nam.”Về phần tâm hồn, Giran cho rằng dân tộc An Nam thiếu đi hoàn toàn khả năng đồng cảm với nỗi đau hay sự thống khổ của người khác. Bằng chứng là dân chúng vẫn sử dụng các hình phạt xử tử mang tính chất ghê rợn tăng dần theo từng bậc thắt cổ, chém đầu, voi giày và lăng trì. Và tất cả lý giải mà ông có thể đưa ra đó là do khí hậu nóng ẩm khắc nghiệt và chế độ ăn uống nghèo nàn của người An thế mà dân tộc An Nam được hưởng một “đặc ân” vô giá tính khí hài hòa. Mặc dù về cả phương diện thể chất và tinh thần đều không đạt đỉnh cao, nhưng tất cả đều hợp nhất ở một mức đặc biệt thấp “máu huyết lưu thông chậm, thần kinh kiệt quệ và cơ bắp không còn chút sức bật nào.”Điều này khiến cho người An Nam có khả năng nhẫn nhục chịu đựng, khúm núm, không có ý định phản kháng – một đức tính cần thiết để người Pháp có thể thiết lập chế độ thuộc địa mà không hề có phản ứng gì, còn những cuộc nổi dậy chống lại sự xâm lược của kẻ khổng lồ Trung Hoa chỉ là đợt bộc phát mang tính bốc đồng của tuổi trẻ hơn là cuộc cách mạng trưởng thành và kiên gì Paul Giran nhận xét về khả năng tư duy của người An Nam có nhiều nét tương đồng với nhận xét của Huân tước Cromer4 Evelyn Baring, Huân tước thứ Nhất xứ Cromer, quản trị thuộc địa Ai Cập của chính phủ Anh Quốc. về người phương Đông cả tin, thiếu nghị lực và sáng kiến, quen thói nịnh bợ quá mức, mưu mô xảo quyệt, độc ác với súc vật. Người phương Đông không thể đi trên đường cái hoặc vỉa hè đầu óc lộn xộn của họ không thể hiểu được điều mà người châu Âu khôn ngoan hiểu được ngay đường và vỉa hè được làm ra để người ta đi bộ. Người phương Đông hay nói dối, họ thường “”lờ đờ uể oải và hay nghi ngờ”...5 Evelyn Barin, Huân tước Cromer, Ai Cập hiện đại 1908.Về phần kỹ nghệ, thương mại và nông nghiệp, ông nhận xét rằng “nghề đi biển còn ở mức phôi thai”, “thợ thủ công kém tinh xảo”, gần như không xuất hiện kỹ nghệ và thương mại của người An Nam bản địa, ngoại thương không tồn tại cho đến khi “người Pháp thành lập chế độ bảo hộ, điều kiện kinh tế của đất nước đã thay đổi đáng kể và với họ người An Nam là điều kiện sống cư dân.” Và ông cũng khẳng định rằng việc tạo ra các ngành kỹ nghệ địa phương và thương mại sẽ là cơ sở để cải thiện đạo đức. Dưới con mắt của một vị quan cai trị thuộc địa, chắc chắn Giran khó có thể vượt qua được việc xếp dân tộc An Nam vào chủng loại thấp kém hơn, và những điều mà các xứ sở thực dân đang làm đều là tốt cho những dân tộc đang bị lệ thuộc vào điểm của việc đóng khung tư tưởng phân biệt chủng tộc của Paul Giran là ông cho rằng việc cải thiện trí tuệ hay tư duy của người dân An Nam là chuyện hoàn toàn vô ích. Ông viết “Trong tổ chức não bộ của các chủng tộc, có những giới hạn không thể vượt qua.” Theo Giran, việc cai trị thuộc địa của người Pháp tại An Nam có được thuận buồm xuôi gió hay không phụ thuộc vào việc giữ vững tính toàn vẹn của tổ chức xã hội, luật pháp và cả bộ máy hành chính. Ở An Nam, khái niệm dân chủ không tồn tại, thay vào đó các vị quan người Pháp cần phải thực hiện “sự cai trị đúng mực nhất”, cũng như không cần phải dạy người An Nam cách tư duy, ngôn ngữ của người Pháp, cho họ bộ luật của nước Pháp; nhưng nên cải thiện đất nước này bằng cách tạo ra các kênh đào và các tuyến đường sắt, làm màu mỡ đất cuốn sách được viết ra dưới góc nhìn của người thực dân đi chinh phục thuộc địa, nước Pháp nhân danh thần thánh của họ và “khai hóa văn minh”, họ tự cho mình quyền thống trị các dân tộc khác và đưa ra những biện hộ rất cao cả cho chế độ thuộc địa của họ. Hãy thử nhìn lại một lần, liệu rằng ngay trong cuốn sách này của Giran, liệu rằng có một sự ghi nhận nào về tiếng nói của người dân An Nam, hay đó chỉ là những nhận xét hoàn toàn dựa trên lăng kính của chế độ thực dân và chủ nghĩa bá quyền? Tuy vậy, “Tâm lý dân tộc An Nam” là một cuốn sách ngắn, khá cô đọng, trình bày có logic, lớp lang rõ ràng và là một bằng chứng cho việc người Pháp đã bỏ công sức tìm hiểu về đặc điểm của người An Nam qua lịch sử, nhân chủng, giải phẫu, văn hóa – xã hội… Đây có thể là nguồn tài liệu tham khảo, góp phần chỉ ra sự khác biệt giữa hai nền văn minh phương Đông và phương Tây.***Chú thích1 Edward Wadie Said, Văn hóa và chủ nghĩa bá quyền, tr. 364. Phạm Anh Tuấn, An Khánh dịch.2 Eugène Cortambert và Léon de Rosny, Tableau de la Conchinchine.3 Jean Baptiste Éliacin Luro, Henri Louis Gabriel de Bizemont, Le pays d’Annam.4 Evelyn Baring, Huân tước Cromer, quản trị thuộc địa Ai Cập của chính phủ Anh Quốc.5 Evelyn Barin, Huân tước Cromer, Ai Cập hiện đại 1908.
Cùng với thế kỷ 20 sắp đi qua, nền kinh tế vật chất, dựa chủ yếu trên cơ sở sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, sản xuất, chế biến, phân phối, sử dụng sản phẩm vật chất làm nền tảng, đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức, trong đó việc sản xuất, truyền tải, sử dụng tri thức chi phối toàn bộ các hoạt động kinh nay các giá trị kinh tế lớn nhất đuợc làm ra không phải trong khu vực trực tiếp sản xuất của cải vật chất mà trong khu vực khoa học, kỹ thuật, dịch vụ. Vai trò của tài nguyên thiên nhiên và của cải vật chất sẵn có ngày càng giảm so với tiềm năng trí tuệ, tinh thần, văn ba mươi năm trước, sự tiêu hao vật chất và năng lượng với nhịp độ khó kiềm chế nổi của nền văn minh công nghiệp truyền thống đã khiến các nhà kinh tế thuộc câu lạc bộ Roma lên tiếng kêu gọi các chính phủ ngừng tăng trưởng kinh tế "tăng trưởng zê-rô" để ngăn ngừa thảm hoạ diệt vong, thì cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã đảo lộn tình hình và đưa nhân loại tiến lên một nền văn minh mới, cao hơn nền văn minh trí tuệ, trong đó tăng trưởng không ô nhiễm môi trường sống. Trong xu thế toàn cầu hoá đi đôi với cạnh tranh quyết liệt, nền kinh tế tri thức tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho những nuớc đi sau có thể dựa vào tiềm năng chất xám để nhanh chóng đuổi kịp các nước khác, song cũng hàm chứa những thách thức to lớn, những khó khăn, rủi ro và cạm bẫy không phải luôn luôn dễ nhìn và dễ tránh. Trong lịch sử chưa bao giờ các đặc điểm tâm lý, trí tuệ có ý nghĩa quyết định như bây giờ đối với nền thịnh vượng, thậm chí sự tồn vong của một quốc gia. Trong các điều kiện ấy, sẽ không có gì lạ nếu tới đây bên cạnh một số nước tăng trưởng mau chóng thần kỳ có thể có những nuớc suy sụp thảm hại và tụt hậu vô vậy, phân tích để hiểu rõ những đặc điểm văn hoá, tâm lý của dân tộc, những truyền thống tốt, những yếu tố tích cực, thúc đẩy sự phát triển, cùng với những nhược điểm, những yếu tố chưa tốt, thậm chí tiêu cực, đang hoặc sẽ níu kéo chúng ta lại sau, là việc làm hết sức cần thiết để giúp xây dựng một chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp hoàn cảnh và điều kiện thế giới ngày nay. Cần nhìn lại kỹ bản thân ta không chỉ để tự tin hơn, mà còn để bớt chủ quan trước tình hình mới. Tự soi gương bao giờ cũng có ích, nhưng không phải chỉ để thấy mình đẹp mà còn để thấy mình có những khiếm khuyết gì cần phải sửa, thay vì cố tình bỏ qua hay che nhiên, vấn đề nêu ra rất phức tạp về nhiều mặt, ở đây tôi không dám có tham vọng phân tích kỹ càng, chỉ xin trình bày đôi điều suy ngẫm, lạm bàn một số nét tiêu cực trong tâm lý người Việt Nam mà từ vị trí một người dân thường, một nhà giáo và một nhà khoa học đã khiến tôi băn khoan nhiều và mong muốn có dịp thảo luận để giúp chúng ta tự hiểu rõ mình hơn khi buớc sang thế kỷ thể nói từ ngày đổi mới và mở cửa chúng ta đã nhận thức đuợc tầm quan trọng của kết cấu hạ tầng vật chất trong phát triển kinh tế và đã tập trung xây dựng năng lượng, giao thông, bưu điện, viễn thông, Chỉ vài năm lại đây, khi tăng trưởng chững lại, chúng ta mới bắt đầu ý thức rõ hơn tầm quan trọng của kết cấu hạ tầng tâm-lý-xã-hội tập quán, đặc tính con người, cách nghĩ, cách làm việc, cách sống, quan niệm xử thế , như mỗi con người, một cộng đồng dân tộc có những nét riêng không lẫn được với các dân tộc khác. Ví như đầu óc thực tế của người Mỹ, tính chính xác kỷ luật của người Đức, tinh thần coi trọng danh dự và tính ham học hỏi của người Nhật, sự thông minh tài hoa của người Do thái, tinh thần cố kết dân tộc của các cộng đồng người Hoa, là những đức tính dù chưa hẳn tiêu biểu cũng đã từng có tác dụng rất quan trọng trong quá trình phát triển lâu dài của các dân tộc kể chung người Việt Nam chúng ta được đánh giá là thông minh, hiếu học, cần cù trong lao động, dũng cảm trong chiến là những đức tính hết sức quý báu, đã giúp cho dân tộc ta tồn tại được cho đến ngày nay, trải qua không ít thăng trầm suốt mấy nghìn năm lịch sử. Có thời, do tự tôn dân tộc quá đà sau những chiến thắng vẻ vang chống ngoại xâm, chúng ta nói về các đức tính ấy một cách say sưa, tưởng chừng như thế đã quá đủ để bảo đảm cho dân tộc ta, một khi được giải phóng khỏi ách đô hộ bên ngoài, sẽ nhanh chóng vươn lên về kinh tế, văn hoá, khoa học. Thực tế cho thấy không đơn giản như vậy. Ngày càng thấy rõ, trong sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nước, ngay trong khu vực Đông Nam Á này, các đối thủ của ta đâu chịu thua kém ta về các mặt kể đành dân ta thông minh, tài trí. Nhưng khi dẫn chứng sự thông minh của tổ tiên, nhiều người thường nghĩ đến tài đối đáp, ứng xử nhanh trí của các nhân vật như Mạc Đĩnh Chi, Trạng Quỳnh, Đoàn Thị Điểm, Hồ xuân Hương, ... hay trong thời hiện đại, thành công của một số vị khoa bảng học giỏi, đỗ cao ở nước ngoài. Thật ra, học giỏi, đỗ cao thì thời nào cũng tốt, song việc học thời nay khác với thời xưa, và xã hội văn minh bây giờ đòi hỏi nhiều hơn là chỉ học giỏi, đỗ cao, nhất là sự học giỏi hiểu theo quan niệm cũ kỹ của ta Bill Gates bỏ học, không có bằng cấp cao, nhưng lại là tiêu biểu cho thứ tài năng đắc dụng nhất ở thời đại này. Chính cái quan niệm lạc hậu về học hành, thi cử, đỗ đạt ấy khiến cho xã hội ta nhiều khi chú trọng đào tạo học trò giỏi theo kiểu học gạo nhiều hơn là khuyến khích tài năng đích ai chối cãi người Việt Nam hiếu học, chuộng tri thức tuy gần đây cái động cơ và phương pháp tìm đến và sử dụng tri thức đã bị méo mó khá nhiều. Thời đại này tri thức lại là của báu, vậy tưởng chừng dân ta đã có ưu thế cơ bản để đi vào thế kỷ 21. Thế nhưng vẫn chưa phải. Bởi lẽ cái động lực hàng đầu để thúc đẩy xã hội tri thức phát triển là đầu óc tưởng tượng sáng tạo, mà - tôi xin lỗi nếu phải nói ra một điều có thể xúc phạm tự ái dân tộc của nhiều người - chúng ta còn nghèo trí tưởng tượng. Thật vậy, những ai còn nghi ngờ điều này xin hãy bình tĩnh đảo mắt nhìn qua một lượt các kiểu nhà biệt thự mới mọc lên ở thành phố trong thời mở cửa, và dạo qua các cửa hiệu, các chợ đầy ắp hàng Trung Quốc, hàng Thái Lan đang nghiễm nhiên tràn ngập thị trường. Từ quần áo, đồ chơi trẻ em, đồ dùng văn phòng, cho đến xe đạp, quạt máy, nhiều hàng nội của ta không cạnh tranh nổi vì thua kém mẫu mã, hình dáng, chủng loại, giá cả, và nhiều khi cả chất lượng, công dụng. Đâu phải kỹ thuật ta không đủ trình độ làm ra các sản phẩm như họ. Chẳng qua chúng ta từ lâu quá quen sao chép, ít chịu khó nghĩ ra ý tưởng mới. Nhìn lại từ cái bàn, cái ghế, cái giường, cho đến cây bút, cái cặp sách thời bao cấp ở miền Bắc mới thấy rõ sao mà ta tự bằng lòng dễ dàng đến vậy, có thể nói 50 năm không hề suy nghĩ thay đổi. Cả đến cách dạy, cách học ở nhà trường. Thời tôi đi học, tôi đã học toán như thế nào thì bây giờ các cháu học sinh phổ thông cũng học gần y như thế, chỉ có khác là lớp chuyên rất nhiều và học thêm, luyện thi vô tội nhiên ở đây có vấn đề hoàn cảnh và cơ chế, bởi vì cũng những con người ấy, hay cha chú họ, lại có đầu óc tưởng tượng phong phú biết bao trong cuộc chiến đấu chống xâm lược. Có lẽ do hoàn cảnh lịch sử, ông bà ta bị lối học từ chương khoa cử gò bó tư duy, cho nên so với nhiều dân tộc khác chúng ta ít có những nhà tư tưởng lớn, những triết gia tầm cỡ mà ảnh hưởng sau nhiều thế kỷ còn tiếp tục tác động đến xã hội. Ta cũng ít có những công trình kiến trúc đồ sộ, dựa trên sức tưởng tượng phóng khoáng đáng kinh ngạc, huy động hàng vạn, hàng chục vạn con người lao động xây dựng hết thế hệ này sang thế hệ khác, trong hàng trăm năm. Về văn học, những tác phẩm hay nhất của ta cũng chủ yếu làm say đắm lòng người bởi văn chương mựơt mà trau chuốt, gợi cho ta những tình cảm ưu ái thiết tha, giúp ta hiểu thấu hơn nhân tình thế thái. Chứ cũng ít có những pho truyện lớn, với tình tiết phức tạp, ý tưởng kỳ lạ, độc đáo, lôi cuốn ta vào những thế giới nửa thực nửa hư, vượt ra khỏi các giới hạn thực tại tầm thường. Phải chăng ta không có các loại tiểu thuyết như Tam Quốc, Thuỷ hử, Hồng Lâu Mộng, hay các truyện của A. Dumas, Victor Hugo, L. Tolstoi, Dostoevski,..., điều đó ít nhiều cũng nói lên cái nhược điểm của dân tộc ta?Einstein đã có một câu nói nổi tiếng Trí tưởng tượng còn quan trọng hơn tri thức. Giờ đây, tại nhiều đại học ở phương Tây câu nói ấy được coi như một khẩu hiệu, một phương châm đào tạo để bước vào thế kỷ mới, khi mà ai cũng biết và cũng tin rằng tri thức là yếu tố quyết định sự phồn vinh của các quốc nghe tưởng như một nghịch lý, nhưng thật ra là chân lý rất sâu sắc, tổng kết kinh nghiệm của một nhà bác học lỗi lạc bậc nhất mà cống hiến vĩ đại đã tạo điều kiện mở đường cho sự ra đời nền văn minh trí tuệ. Ai cũng biết tri thức cực kỳ quan trọng, thời nay càng quan trọng hơn bất cứ thời nào trước đây, nhưng ý nghĩa thời sự của chân lý đó là, hơn bất cứ thời nào trong lịch sử, tri thức mà thiếu sức tưởng tượng dễ biến thành tri thức chết, tri thức vô dụng, không có tiềm năng phát triển. "Biết" và "hiểu" là rất cần để làm theo, đi theo, chứ hoàn toàn chưa đủ để sáng tạo, khám phá. Thời nay hơn bao giờ hết, những tác phẩm không hồn, không cá tính, những sản phẩm không mang theo dấu ấn gì đặc biệt, nhàm chán như bao nhiêu thứ lặp đi lặp lại hàng ngày trong cuộc sống bằng phẳng, thì vô luận đó là ý tưởng, dịch vụ hay vật phẩm tiêu dùng cũng đều không có sức thu hút và do đó không có sức cạnh tranh. Cho nên, thiếu sức tưởng tượng là một khiếm khuyết lớn mà tới đây ta phải cố gắng khắc phục bằng mọi cách, truớc hết từ cơ chế quản lý xã hội và sự chấn hưng nền giáo dục từ nhiều năm chỉ thiên về nhồi nhét trí nhớ, bắt chước máy móc, và kiềm chế cá đôi với trí tưởng tượng chưa đủ phong phú, một loạt đức tính cần thiết khác để cạnh tranh thắng lợi trong nền kinh tế toàn cầu hoá cũng chưa rõ rệt là mặt mạnh của người Việt Nam so với nhiều dân tộc khác đầu óc kinh doanh hiện đại, cung cách làm ăn lớn, tính toán nhìn xa, trông rộng, táo bạo, nhạy cảm và năng động với cái mới, thích ứng mau lẹ để xoay chuyển tình thế khi gặp khó khăn, bền bỉ và quyết tâm theo đuổi đến cùng một sự nghiệp được yêu thích, miệt mài học tập, ngẫm nghĩ và phân tích sâu sắc, nghiên cứu nghiêm túc để tìm hiểu cặn kẽ đạo lý của mọi vấn đề. Có lẽ do quá lâu quen sống trong cảnh nghèo thiếu nên người dân ta nhiều khi dễ nhẫn nhục an phận, dễ bằng lòng với những thay đổi nhỏ, những suy tính cá nhân hời hợt, thiển cận theo lối cò con. Vì không cực đoan nên ít có đổ vỡ lớn, nhưng dễ bảo thủ, ít dám chấp nhận rủi ro tìm con đường mới do đó cũng dễ lâm vào trì trệ triền miên. Không có thói quen tính toán hiệu quả, thiếu đầu óc thực tế, lại ham chuộng hình thức, chạy theo hư danh viển vông, kém khả năng và kinh nghiệm hợp tác, góp sức cùng nhau thực hiện một mục tiêu, một kế hoạch lớn, cho nên ít xây dựng được êkip mạnh về một lĩnh vực nào, thường chỉ có nhiều cá nhân giỏi đứng riêng lẻ mà không hợp lại được để tạo ra synergy cao, hình thành những tập thể hùng mạnh, xuất sắc. Cộng đồng người Việt ở hải ngoại cũng thể hiện ít nhiều một tinh thần rời rạc như thế, ý thức đoàn kết giúp đỡ nhau không được như các cộng đồng Do thái hay Hoa kiều, cũng do đó ít có người giàu thật lớn, ít có nhà khoa học thật tầm cỡ, thường chỉ đến một địa vị nào đó là thoả mãn, mệt mỏi, không mấy người đeo đuổi tham vọng thật cao xa. Tất cả những nhược điểm trên, nếu không chú ý khắc phục, đều sẽ trở thành những lực cản không cho phép chúng ta tiến nhanh ở thời đại kinh tế tri thức câu hỏi đặt ra Tại sao trong chiến đấu chống ngoại xâm, dân tộc Việt Nam có thể tỏ ra xuất sắc vô song về trí tưởng tượng, về thông minh, tài trí, dũng cảm, mà trong xây dựng thời bình chưa đuợc như vậy? Phải chăng vì ta chưa khêu gợi, nuôi dưỡng được trong nhân dân một ý chí tự cường mạnh mẽ, một quyết tâm rửa nhục nghèo nàn lạc hậu cũng cao ngang như quyết tâm rửa nhục mất nước trước đây?
tâm lý người việt nam nhìn từ nhiều góc độ